NguyênNgã Đinh Huyền Du Y
13-03-2012, 03:39 PM
Cũng tạm :th_110:
Viborg là một thị trấn cổ ở Đan Mạch, nhưng nơi này chỉ còn lại vài dấu tích các công trình cổ kính do sự tàn phá của trận hỏa hoạn năm 1726.
Anderson đang viết một cuốn sách về lịch sử Đan Mạch. Anh chọn Viborg cho đề tài nghiên cứu của mình. Năm 1891, Anderson tới Viborg, anh thuê phòng trọ trong khu nhà cổ The Golden Lion. Nhà trọ này được xây dựng cách đây 350 năm.
Anderson yêu cầu chủ nhà giành cho anh một căn phòng rộng. Ông chủ của The Golden Lion dẫn anh đi xem hai phòng – phòng số 12 và phòng số 14. Mỗi phòng đều có ba cánh cửa sổ. Các cửa sổ đều nhìn xuống phố. Anderson chọn phòng 12.
Tối đó, khi Anderson xuống tầng dưới ăn tối, anh nhìn thấy một tấm bảng có ghi tên các vị khách. Anderson nhận ra rằng không còn phòng trống trong nhà trọ. Tuy nhiên điều làm anh ngạc nhiên là nhà trọ không có phòng số 13.
Có lẽ số 13 là con số không may mắn nên nhiều người kiêng ở trong căn phòng có con số xui xẻo như thế.
Khi Anderson lên cầu thang quay về phòng, anh đã cố gắng mở cửa phòng nhưng nó không nhúc nhích. Sau đó, Anderson mới nhận ra mình đã nhầm phòng. Anh đang đứng trước cửa phòng số 13.
Anderson nghe có tiếng bước chân người phía trong.
‘Tôi xin lỗi!’ Anh nói vọng vào và trở về phòng số 12.
Anderson cho rằng căn phòng đó giành cho những người hầu, anh định hỏi chủ nhà vào sáng hôm sau.
Anderson trở về phòng châm một chiếc đèn dầu rồi nhìn quanh, ánh sáng tù mù của chiếc đèn làm căn phòng trông nhỏ hơn. Song vì đã quá mệt mỏi nên anh không bận tâm lắm. Anderson leo lên giường ngủ ngay.
Buổi sáng, Anderson đến Tòa thị chính, tiếp tục nghiên cứu những hồ sơ về thị trấn. Anh đã đọc được rất nhiều tài liệu cũ, có những hồ sơ từ thế kỷ XVI.
Trong đống tài liệu đó, có một bức thư của vị giám mục ở Viborg viết vào năm 1560. Vị giám mục này sở hữu khoảng ba, bốn ngôi nhà trong thị trấn, ông đã đem một ngôi cho người đàn ông có tên là Nicolas Francken thuê.
Người dân ở Viborg không thích Nicolas Francken, một vài người còn gửi thư cho giám mục phàn nàn rằng Francken là kẻ xấu, một tên phù thủy, nên muốn hắn phải rời khỏi thị trấn.
Giám mục thấy Nicolas Francken chưa làm điều gì sai trái, nên cũng chẳng tin Francken là phù thủy.
Đến giờ Tòa thị chính đóng cửa, Anderson phải bỏ dở công việc ra về. Viên thư ký của Tòa thị chính hỏi anh:
‘Hình như ông đang đọc các tài liệu về đức giám mục và Nicolas Francken. Tôi cũng rất quan tâm đến các nhân vật này nhưng thật tiếc là tôi không biết Francken đã ở đâu vì rất nhiều hồ sơ của thị trấn này đã cháy thành tro trong vụ hỏa hoạn khủng khiếp năm 1726.’
Anderson cảm ơn viên thư ký và quay lại The Golden Lion. Anh muốn hỏi chủ quán trọ về căn phòng số 13 nhưng ông ta quá bận rộn. Vì vậy, Anderson phải từ bỏ ý định, anh leo lên cầu thang, dừng chân trước cửa phòng 13. Anh nghe thấy phía trong có người đang đi lại và rì rầm nói chuyện, âm giọng đó nghe rất lạ tai.
Anderson trở về phòng, lần này anh khẳng định căn phòng số 12 này quá nhỏ so với bình thường, nên quyết định yêu cầu chủ nhà giành cho anh một căn phòng rộng hơn.
Andeson càng thêm bực mình bởi không thể tìm thấy chiếc vali của mình. Rõ ràng anh đã đặt nó trên chiếc bàn cạnh tường nhưng giờ thì cả vali lẫn bàn đều biến mất. Hẳn gã chủ đã chuyển chiếc vali xuống nhà kho. Anderson muốn ông ta phải trả lại chiếc vali ngay lập tức nhưng vì quá muộn nên anh không gọi ông ta lên.
Anh đến bên cửa sổ, châm một điếu thuốc và ngắm nhìn khung cảnh bên ngoài. Đối diện với nhà trọ còn có một ngôi nhà được bao bọc bởi những bức tường cao sừng sững. Bóng Anderson in trên vách nhờ ánh đèn hắt ra. Hình như người thuê phòng số 13 cũng đứng bên cửa sổ như anh, bởi Anderson thấy chiếc bóng thứ hai trên tường đối diện.
Chiếc bóng kia trông khá kỳ quặc bởi chiếc mũ cao, chóp nhọn. Ánh đèn hắt từ phòng 13 cũng có một màu đỏ khác thường, giống như màu máu.
Anderson mở cửa sổ và thò đầu ra ngoài, anh muốn xem mặt người sống ở phòng kế bên nhưng anh chỉ thấy tay áo của chiếc áo choàng trắng. Bất chợt, người ở phòng 13 dời cửa sổ, ánh đèn đỏ vụt tắt.
Anderson đã hút xong điếu thuốc, anh để gạt tàn ở rìa cửa sổ rồi vặn nhỏ đèn đi ngủ.
Sáng hôm sau, Anderson thức giấc khi người hầu phòng mang nước nóng lên, anh nhớ ngay đến chiếc vali.
‘Cô có biết vali của tôi ở đâu không?’ Andeson hỏi.
Người hầu phòng cười to rồi chỉ tay vào chiếc vali nằm trên mặt bàn cạnh tường, đúng vị trí Andeson đã để.
Đồng thời, anh cũng nhận ra một điều kỳ lạ khác. Đó là vị trí của chiếc gạt tàn, nó đang ở rìa của khung cửa sổ giữa. Trong khi rõ ràng anh đứng hút thuốc ở khung cửa cuối phòng, giáp phòng số.
Anderson thay quần áo và quyết định sang thăm vị khách ở phòng số 13. Nhưng anh vô cùng ngạc nhiên khi bước chân sang phòng kế bên, đó lại là phòng số 14. Anderson hoảng sợ bởi cảm giác như thần kinh mình có vấn đề.
Sau bữa sáng, Anderson lại tới tòa thị chính đọc tài liệu. Anh tìm thấy duy nhất một bức thư của giám mục viết cho Nicolas Francken. Đã có một số người trong thị trấn tính chuyện đuổi Francken ra khỏi Viborg, nên kéo nhau đến chỗ ở của Francken nhưng anh ta đã biến mất. Vị giám mục viết rằng không ai biết Francken đã đi đâu. Mọi chuyện đều kết thúc.
Tối hôm đó, Anderson đã có cơ hội nói chuyện với chủ quán trọ The Golden Lion. Anh hỏi chủ nhà:
‘Sao nhà trọ này lại không có phòng số 13.’
‘Đa số mọi người đều chẳng thích ngủ trong một căn phòng mang số 13,' chủ nhà trọ trả lời. 'Bởi ai cũng cho rằng đó là con số không may mắn.’
‘Thế bây giờ ai đang ở phòng 13’ Anderson hỏi tiếp.
‘Chẳng có phòng số 13 nào cả, chỉ có phòng 14 bên cạnh phòng ông thôi.’
‘Tất nhiên là thế rồi,’ Anderson nói. ‘Hẳn là tôi đã nhầm lẫn. Tôi có thể mời ông lên phòng 12 thưởng thức một ly rượu và hút xì gà không?’
‘Tôi rất thích,’ gã chủ nhà trọ đáp.
Cả hai cùng nhau lên cầu thang. Họ đi qua phòng số 10, 11 tới phòng 12. Người chủ nhà nhìn vào trong phòng thắc mắc:
‘Hình như căn phòng này trông nhỏ đi rất nhiều.’
Anderson rót hai ly rượu và mời chủ nhà hút thuốc. Anh đi mở cửa để khói thuốc bay ra ngoài. Ánh sáng đỏ rực và chiếc bóng in trên vách tường nhà đối diện phản chiếu từ phòng 13. Chiếc bóng đó đang nhảy múa điên cuồng nhưng lại không gây tiếng động nào cả.
Anderson ngồi xuống nhấm nháp ly rượu của mình. Anh muốn kể cho chủ nhà về những điều kỳ lạ anh đã chứng kiến. Đột nhiên, có tiếng động khủng khiếp vọng lên từ phòng bên cạnh.
‘Chẳng biết là do mèo hay do người đàn ông điên khùng ở phòng bên?’ Anderson càu nhàu.
'Ông Jensen đấy mà.’ Chủ nhà trọ trả lời. ‘Ông ta thường thuê phòng 14. Người đàn ông đáng thương đó chắc bị làm sao rồi.’
Bỗng tiếng đập cửa vọng vào, và gần như ngay lập tức một người đàn ông xô cửa bước vào.
‘Làm ơn tắt ngay thứ âm thanh kinh khủng đó đi,’ ông ta giận dữ gào lên.
‘Ông Jensen,’ Chủ nhà lên tiếng. ‘Chúng tôi đang nghĩ ông gây ra tiếng động đó.’
Ba người đàn ông nhìn nhau trong giây lát rồi chạy ra ngoài hành lang. Tiếng động vọng ra từ phòng số 13.
Gã chủ nhà trọ nhà nhấn chuông cửa và vặn nắm đấm nhưng cửa phòng đã khóa chặt.
‘Đợi tôi gọi người tới phá cửa.’ Người chủ nhà bực tức lao xuống dưới nhà.
Jensen và Anderson đứng ngoài cửa phòng 13, tiếng động bên trong mỗi lúc một lớn và điên loạn.
Jensen quay sang nói với Anderson:
‘Tôi phải kể với ông vài chuyện kỳ cục xảy ra ở đây. Phòng tôi có ba cửa sổ vào ban ngày nhưng chỉ còn hai cửa sổ vào buổi tối. Có lẽ ông sẽ cho rằng tôi bị điên...’
‘Chúa ơi! Phòng tôi cũng vậy đấy.’ Anderson kêu lên. ‘Buổi tối phòng tôi bao giờ cũng nhỏ hơn ban ngày.’
Cửa phòng số 13 đột nhiên bật tung, một cánh tay thò ra ngoài. Cánh tay đó gày đét đầy lông lá, các móng tay thì bẩn thỉu dài khoằm khèo.
Anderson thét lên và đẩy Jensen tránh xa cánh cửa. Cánh tay biến mất cùng lúc cánh cửa đóng sầm lại. Một tràng cười điên loạn, ma quái vọng ra.
Người chủ nhà dẫn theo hai người đàn ông lên lầu, họ cầm rìu bổ vào cánh cửa phòng số 13.
Đột nhiên họ kêu thất thanh và đánh rơi rìu. Họ đã bổ rìu vào tường. Cánh cửa phòng 13 biến mất.
Buổi sáng, những người công nhân đã lật sàn giữa phòng số 12 và14. Họ tìm thấy một chiếc hộp dưới thềm nhà đựng những tài liệu cũ bên trong. Anderson nghĩ rằng những tài liệu này thuộc về Nicolas Francken, người đàn ông biến mất năm 1560.
Chẳng ai hiểu ý nghĩa những dòng chữ vì đó là ngôn ngữ cổ. Chữ đã ngả màu, mực lại cũ. Nhưng Anderson nhận ra đó không phải là màu mực mà là màu máu.
Viborg là một thị trấn cổ ở Đan Mạch, nhưng nơi này chỉ còn lại vài dấu tích các công trình cổ kính do sự tàn phá của trận hỏa hoạn năm 1726.
Anderson đang viết một cuốn sách về lịch sử Đan Mạch. Anh chọn Viborg cho đề tài nghiên cứu của mình. Năm 1891, Anderson tới Viborg, anh thuê phòng trọ trong khu nhà cổ The Golden Lion. Nhà trọ này được xây dựng cách đây 350 năm.
Anderson yêu cầu chủ nhà giành cho anh một căn phòng rộng. Ông chủ của The Golden Lion dẫn anh đi xem hai phòng – phòng số 12 và phòng số 14. Mỗi phòng đều có ba cánh cửa sổ. Các cửa sổ đều nhìn xuống phố. Anderson chọn phòng 12.
Tối đó, khi Anderson xuống tầng dưới ăn tối, anh nhìn thấy một tấm bảng có ghi tên các vị khách. Anderson nhận ra rằng không còn phòng trống trong nhà trọ. Tuy nhiên điều làm anh ngạc nhiên là nhà trọ không có phòng số 13.
Có lẽ số 13 là con số không may mắn nên nhiều người kiêng ở trong căn phòng có con số xui xẻo như thế.
Khi Anderson lên cầu thang quay về phòng, anh đã cố gắng mở cửa phòng nhưng nó không nhúc nhích. Sau đó, Anderson mới nhận ra mình đã nhầm phòng. Anh đang đứng trước cửa phòng số 13.
Anderson nghe có tiếng bước chân người phía trong.
‘Tôi xin lỗi!’ Anh nói vọng vào và trở về phòng số 12.
Anderson cho rằng căn phòng đó giành cho những người hầu, anh định hỏi chủ nhà vào sáng hôm sau.
Anderson trở về phòng châm một chiếc đèn dầu rồi nhìn quanh, ánh sáng tù mù của chiếc đèn làm căn phòng trông nhỏ hơn. Song vì đã quá mệt mỏi nên anh không bận tâm lắm. Anderson leo lên giường ngủ ngay.
Buổi sáng, Anderson đến Tòa thị chính, tiếp tục nghiên cứu những hồ sơ về thị trấn. Anh đã đọc được rất nhiều tài liệu cũ, có những hồ sơ từ thế kỷ XVI.
Trong đống tài liệu đó, có một bức thư của vị giám mục ở Viborg viết vào năm 1560. Vị giám mục này sở hữu khoảng ba, bốn ngôi nhà trong thị trấn, ông đã đem một ngôi cho người đàn ông có tên là Nicolas Francken thuê.
Người dân ở Viborg không thích Nicolas Francken, một vài người còn gửi thư cho giám mục phàn nàn rằng Francken là kẻ xấu, một tên phù thủy, nên muốn hắn phải rời khỏi thị trấn.
Giám mục thấy Nicolas Francken chưa làm điều gì sai trái, nên cũng chẳng tin Francken là phù thủy.
Đến giờ Tòa thị chính đóng cửa, Anderson phải bỏ dở công việc ra về. Viên thư ký của Tòa thị chính hỏi anh:
‘Hình như ông đang đọc các tài liệu về đức giám mục và Nicolas Francken. Tôi cũng rất quan tâm đến các nhân vật này nhưng thật tiếc là tôi không biết Francken đã ở đâu vì rất nhiều hồ sơ của thị trấn này đã cháy thành tro trong vụ hỏa hoạn khủng khiếp năm 1726.’
Anderson cảm ơn viên thư ký và quay lại The Golden Lion. Anh muốn hỏi chủ quán trọ về căn phòng số 13 nhưng ông ta quá bận rộn. Vì vậy, Anderson phải từ bỏ ý định, anh leo lên cầu thang, dừng chân trước cửa phòng 13. Anh nghe thấy phía trong có người đang đi lại và rì rầm nói chuyện, âm giọng đó nghe rất lạ tai.
Anderson trở về phòng, lần này anh khẳng định căn phòng số 12 này quá nhỏ so với bình thường, nên quyết định yêu cầu chủ nhà giành cho anh một căn phòng rộng hơn.
Andeson càng thêm bực mình bởi không thể tìm thấy chiếc vali của mình. Rõ ràng anh đã đặt nó trên chiếc bàn cạnh tường nhưng giờ thì cả vali lẫn bàn đều biến mất. Hẳn gã chủ đã chuyển chiếc vali xuống nhà kho. Anderson muốn ông ta phải trả lại chiếc vali ngay lập tức nhưng vì quá muộn nên anh không gọi ông ta lên.
Anh đến bên cửa sổ, châm một điếu thuốc và ngắm nhìn khung cảnh bên ngoài. Đối diện với nhà trọ còn có một ngôi nhà được bao bọc bởi những bức tường cao sừng sững. Bóng Anderson in trên vách nhờ ánh đèn hắt ra. Hình như người thuê phòng số 13 cũng đứng bên cửa sổ như anh, bởi Anderson thấy chiếc bóng thứ hai trên tường đối diện.
Chiếc bóng kia trông khá kỳ quặc bởi chiếc mũ cao, chóp nhọn. Ánh đèn hắt từ phòng 13 cũng có một màu đỏ khác thường, giống như màu máu.
Anderson mở cửa sổ và thò đầu ra ngoài, anh muốn xem mặt người sống ở phòng kế bên nhưng anh chỉ thấy tay áo của chiếc áo choàng trắng. Bất chợt, người ở phòng 13 dời cửa sổ, ánh đèn đỏ vụt tắt.
Anderson đã hút xong điếu thuốc, anh để gạt tàn ở rìa cửa sổ rồi vặn nhỏ đèn đi ngủ.
Sáng hôm sau, Anderson thức giấc khi người hầu phòng mang nước nóng lên, anh nhớ ngay đến chiếc vali.
‘Cô có biết vali của tôi ở đâu không?’ Andeson hỏi.
Người hầu phòng cười to rồi chỉ tay vào chiếc vali nằm trên mặt bàn cạnh tường, đúng vị trí Andeson đã để.
Đồng thời, anh cũng nhận ra một điều kỳ lạ khác. Đó là vị trí của chiếc gạt tàn, nó đang ở rìa của khung cửa sổ giữa. Trong khi rõ ràng anh đứng hút thuốc ở khung cửa cuối phòng, giáp phòng số.
Anderson thay quần áo và quyết định sang thăm vị khách ở phòng số 13. Nhưng anh vô cùng ngạc nhiên khi bước chân sang phòng kế bên, đó lại là phòng số 14. Anderson hoảng sợ bởi cảm giác như thần kinh mình có vấn đề.
Sau bữa sáng, Anderson lại tới tòa thị chính đọc tài liệu. Anh tìm thấy duy nhất một bức thư của giám mục viết cho Nicolas Francken. Đã có một số người trong thị trấn tính chuyện đuổi Francken ra khỏi Viborg, nên kéo nhau đến chỗ ở của Francken nhưng anh ta đã biến mất. Vị giám mục viết rằng không ai biết Francken đã đi đâu. Mọi chuyện đều kết thúc.
Tối hôm đó, Anderson đã có cơ hội nói chuyện với chủ quán trọ The Golden Lion. Anh hỏi chủ nhà:
‘Sao nhà trọ này lại không có phòng số 13.’
‘Đa số mọi người đều chẳng thích ngủ trong một căn phòng mang số 13,' chủ nhà trọ trả lời. 'Bởi ai cũng cho rằng đó là con số không may mắn.’
‘Thế bây giờ ai đang ở phòng 13’ Anderson hỏi tiếp.
‘Chẳng có phòng số 13 nào cả, chỉ có phòng 14 bên cạnh phòng ông thôi.’
‘Tất nhiên là thế rồi,’ Anderson nói. ‘Hẳn là tôi đã nhầm lẫn. Tôi có thể mời ông lên phòng 12 thưởng thức một ly rượu và hút xì gà không?’
‘Tôi rất thích,’ gã chủ nhà trọ đáp.
Cả hai cùng nhau lên cầu thang. Họ đi qua phòng số 10, 11 tới phòng 12. Người chủ nhà nhìn vào trong phòng thắc mắc:
‘Hình như căn phòng này trông nhỏ đi rất nhiều.’
Anderson rót hai ly rượu và mời chủ nhà hút thuốc. Anh đi mở cửa để khói thuốc bay ra ngoài. Ánh sáng đỏ rực và chiếc bóng in trên vách tường nhà đối diện phản chiếu từ phòng 13. Chiếc bóng đó đang nhảy múa điên cuồng nhưng lại không gây tiếng động nào cả.
Anderson ngồi xuống nhấm nháp ly rượu của mình. Anh muốn kể cho chủ nhà về những điều kỳ lạ anh đã chứng kiến. Đột nhiên, có tiếng động khủng khiếp vọng lên từ phòng bên cạnh.
‘Chẳng biết là do mèo hay do người đàn ông điên khùng ở phòng bên?’ Anderson càu nhàu.
'Ông Jensen đấy mà.’ Chủ nhà trọ trả lời. ‘Ông ta thường thuê phòng 14. Người đàn ông đáng thương đó chắc bị làm sao rồi.’
Bỗng tiếng đập cửa vọng vào, và gần như ngay lập tức một người đàn ông xô cửa bước vào.
‘Làm ơn tắt ngay thứ âm thanh kinh khủng đó đi,’ ông ta giận dữ gào lên.
‘Ông Jensen,’ Chủ nhà lên tiếng. ‘Chúng tôi đang nghĩ ông gây ra tiếng động đó.’
Ba người đàn ông nhìn nhau trong giây lát rồi chạy ra ngoài hành lang. Tiếng động vọng ra từ phòng số 13.
Gã chủ nhà trọ nhà nhấn chuông cửa và vặn nắm đấm nhưng cửa phòng đã khóa chặt.
‘Đợi tôi gọi người tới phá cửa.’ Người chủ nhà bực tức lao xuống dưới nhà.
Jensen và Anderson đứng ngoài cửa phòng 13, tiếng động bên trong mỗi lúc một lớn và điên loạn.
Jensen quay sang nói với Anderson:
‘Tôi phải kể với ông vài chuyện kỳ cục xảy ra ở đây. Phòng tôi có ba cửa sổ vào ban ngày nhưng chỉ còn hai cửa sổ vào buổi tối. Có lẽ ông sẽ cho rằng tôi bị điên...’
‘Chúa ơi! Phòng tôi cũng vậy đấy.’ Anderson kêu lên. ‘Buổi tối phòng tôi bao giờ cũng nhỏ hơn ban ngày.’
Cửa phòng số 13 đột nhiên bật tung, một cánh tay thò ra ngoài. Cánh tay đó gày đét đầy lông lá, các móng tay thì bẩn thỉu dài khoằm khèo.
Anderson thét lên và đẩy Jensen tránh xa cánh cửa. Cánh tay biến mất cùng lúc cánh cửa đóng sầm lại. Một tràng cười điên loạn, ma quái vọng ra.
Người chủ nhà dẫn theo hai người đàn ông lên lầu, họ cầm rìu bổ vào cánh cửa phòng số 13.
Đột nhiên họ kêu thất thanh và đánh rơi rìu. Họ đã bổ rìu vào tường. Cánh cửa phòng 13 biến mất.
Buổi sáng, những người công nhân đã lật sàn giữa phòng số 12 và14. Họ tìm thấy một chiếc hộp dưới thềm nhà đựng những tài liệu cũ bên trong. Anderson nghĩ rằng những tài liệu này thuộc về Nicolas Francken, người đàn ông biến mất năm 1560.
Chẳng ai hiểu ý nghĩa những dòng chữ vì đó là ngôn ngữ cổ. Chữ đã ngả màu, mực lại cũ. Nhưng Anderson nhận ra đó không phải là màu mực mà là màu máu.